- Kính thưa
- Kính thưa:
Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Uỷ ban dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992!
- Thưa toàn thể các đồng chí!
Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp của thời
kỳ đầu đổi mới, trên cơ sở quán triệt và thể chế hoá
các chủ trương, đường lối của Đảng được nêu tại Cương lĩnh năm
1991(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội). Đây là bản Hiến pháp tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho việc thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp 1992 (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2001), đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng có ý nghĩa lịc sử, do đó có thể khẳng định, Hiến pháp năm
1992 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình trong
nước và thế giới có nhiều thay đổi sâu sắc. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011 – 2020, trong đó đã làm rõ và
chỉ ra một số nhiệm vụ xây dựng đất nước trong tình hình mới, với yêu
cầu đặt ra là đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế và chính trị; xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; hoàn thiện bộ máy nhà nước; ghi nhận và đảm bảo thực thi
các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Do đó, việc
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một yêu cầu tất yếu khách quan nhằm thể
chế hoá kịp thời, toàn diện những quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là những quan điểm, chủ trương lớn
được được nêu trong Cương lĩnh năm 1991(bổ sung, phát triển năm 2011) và
các văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
1. Về một số yêu cầu chung của việc sửa
đổi Hiến pháp năm 1992
- Về khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội trong
Hiến pháp, cần khẳng định và kiên quyết giữ lại Điều 4 Hiến pháp
1992 về sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời Hiến pháp sửa đổi lần này cần
thiết kế một phần trong Lời nói đầu để khẳng định vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong việc lãnh đạo nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh
dành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước; phát động và lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu ban đầu rất quan trọng.
Từ đó để nói lên vai trò lịch sử và tính tất yếu về sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt nam đối với nhà nước và xã hội.
Hiến pháp cũng cần khẳng định bản chất của
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối và giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào các cơ quan lãnh đạo của
hệ thống chính trị. Đảng, các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Về Tổ chức, phân công thực hiện quyền
lực nhà nước, cần tiếp tục khẳng định tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời quán triệt Cương lĩnh năm 1991(bổ
sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI
của Đảng thì cần bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do
đó, cần sửa đoạn 2 Điều 2 Hiến pháp hiện hành là: “Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp”.
Mặt khác, mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã khẳng
định nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”, nhưng việc nhận diện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp trong các quy định của Hiến pháp đối với chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước chưa được thể hiện rõ ràng. Do đó,
việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần làm rõ nội hàm các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời phân công rành mạch, rõ ràng về
chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cũng như cơ chế kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Theo đó:
+ Với việc xác định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”, Quốc hội là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra thì cần tiếp tục
khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. Còn về chức năng, nhiệm vụ thì Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Như vậy
để khẳng định quyền lực của nhân dân thông qua cơ quan đại diện của mình,
còn chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội chỉ là chức năng thực hiện
một nhánh của quyền lực nhà nước (quyền lập pháp) và việc thực hiện chức
năng này của Quốc hội cũng có sự phối hợp, chế ước và kiểm soát của các
cơ quan nhà nước khác.
Để Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát
tối cao của mình, theo tôi thì cần đổi mới và hoàn thiện các hình thức
giám sát hiện nay của Quốc hội thông qua việc xem xét báo cáo công tác
của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội; hoạt động
chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm và các hình thức giám sát của Hội đồng dân
tộc và các uỷ ban của Quốc hội.
Về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng dân tộc và
các
uỷ ban của Quốc hội, với tính chất là đạo luật gốc
thì không nên quy định những nội dung này trong Hiến pháp mà để Luật Tổ
chức Quốc hội điều chỉnh.
+ Đối với Chính phủ, nên bỏ quy định “ Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội” mà khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, thực hiện quyền hành pháp, vì bản chất của quyền hành pháp đã bao
hàm việc chấp hành và triển khai thực hiện các Luật đã được Quốc hội
thông qua, cũng như các Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội (với tính chất là cơ quan thường trực của Quốc
hội).
+ Đối với quyền tư pháp (phán quyết), chỉ có Toà án
là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước để ra phán quyết đối với các hành
vi vi phạm, các tranh chấp và một số vấn đề pháp lý khác, do đó cần
khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp.
Liên quan tới quyền tư pháp, Hiến pháp hiện hành chưa xác định rõ về
quyền tư pháp mà tại Chương X chỉ quy định chung về “Toà
án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”. Khi đã xác định chức năng của
Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp
thì cũng cần xác định rõ chức năng của Viện kiểm sát.
Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng nên chuyển Viện kiểm sát thành Viện
công tố, với chức năng duy nhất là thực hiện quyền công tố và đưa về
Chính phủ. Thực tiễn hoạt động tư pháp trong thời gian qua cho thấy, với
mô hình tố tụng hiện nay thì nếu quy định như vậy là chưa phù hợp, vì
nếu Viện kiểm sát chuyển thành Viện công tố, thì như kinh nghiệm của các
nước, Viện công tố phải có chức năng chỉ đạo hoạt động điều tra một cách
toàn diện, tức là đưa ra yêu cầu điều tra, chỉ đạo hoạt động điều tra và
chịu trách nhiệm về kết luận điều tra. Ở nước ta hiện nay, Viện kiểm sát
nhân dân cũng đã có những quyền hạn nhất định liên quan tới hoạt động
điều tra, như phê chuẩn các lệnh bắt tạm giữ, tạm giam của cơ quan điều
tra…., tuy nhiên cơ quan điều tra lại tương đối độc lập trong hoạt động
tố tụng và ra kết luận điều tra. Mặt khác, chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn trong
cả quá trình giải quyết các loại án khác như dân sự, kinh doanh thương
mại và hành chính. Ở đây cần phân biệt chức năng giám sát của Quốc hội
với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Việc giám
sát của Quốc hội chỉ mang tính chất giám sát việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ chung của một hệ thống cơ quan và thường không đi vào từng
trường hợp cụ thể; còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát là kiểm sát trực tiếp quá trình giải quyết từng vụ án cụ thể.
Thực tế hiện nay cho thấy, vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung
và kiểm sát công tác xét xử nói riêng của Viện Kiểm sát nhân dân là cần
thiết, quan trọng và hiệu quả.. Chính vì vậy, theo quan điểm của chúng
tôi thì chức năng của Viện kiểm sát nên giữ nguyên như hiện nay là “thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Vấn đề đặt ra là quy
định của về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát sẽ đặt ở chương nào
của Hiến pháp. Về vấn đề này có hai phương án:
Thứ
nhất, giữ nguyên tên gọi
của Chương X “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân” nhưng cần quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của hai hệ thống cơ quan này (quyền tư pháp của
Toà án nhân dân và quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân).
Thứ hai, đưa các quy định về chức
năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
sang Chương quy định về các thiết chế độc lập, bao gồm: Kiểm toán nhà
nước, Viện kiểm sát nhân dân và Hội đồng Hiến pháp (Hội đồng bảo hiến).
Trong đó, dù theo phương án nào thì vẫn cần khẳng định
Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền lực tư pháp
- Về
chế định Chủ tịch nước,
cần tiếp tục khẳng định Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay
mặt nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
đối nội và đối ngoại, đồng thời là người thống lĩnh lực lượng vũ trang.
Cần quy định quyền của Chủ tịch nước trực tiếp thực hiện tuyên bố tình
trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; ra lệnh tổng động viên
hoặc động viên cục bộ; công bố tình trạng khẩn cấp hoặc ban bố tình
trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương. Đồng thời, cần khẳng
định và cụ thể hoá vai trò của Chủ tịch nước trong
việc điều hoà, phối hợp và kiểm soát việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Xuất phát từ quan điển đó và liên quan tới
cơ chế bảo hiến, nếu thành lập Hội đồng Hiến pháp (Hội đồng bảo hiến)
thì nên giao cho Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp. Hội đồng
Hiến pháp chỉ xem xét tính pháp lý của các văn bản Luật, pháp
lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật so với các quy định của Hiến
pháp. Theo đó, Hội đồng Hiến pháp có các nhiệm vụ sau:
+ Xem xét tính hợp hiến của các văn bản sẽ và đã ban hành;
+ Tạm đình chỉ thi hành các Luật đã được Quốc hội thông qua hoặc các Pháp
lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao nếu xét thấy vi phạm Hiến
pháp để kiến nghị với Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội; Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao;
+ Ra Nghị quyết bài bỏ các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật nếu xét
thấy trái với quy định của Hiến pháp;
+ Có thẩm quyền giải thích Hiến pháp (riêng
về vấn đề này, có thể cân nhắc giao cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, nhưng Hội đồng
Hiến pháp có quyền xem xét lại và có ý kiến đối với nội dung giải thích
đó).
- Về
vấn đề trưng cầu dân ý,
đây là một vấn đề nhạy cảm về chính trị cần được cân nhắc một cách hết
sức thận trọng và chặt chẽ về các vấn đề đưa ra trưng cầu dân ý, quy
trình thực hiện, cũng như cách thức sử dụng kết quả trưng cầu dân ý để
tránh sự lợi dụng của các thế lực phản động nhằm chống phá Đảng và Nhà
nước ta.
- Về chính sách đại đoàn kết dân tộc,
để đảm bảo tính hệ thống của khối đại đoàn kết dân tộc, nên gộp quy định
tại Điều 9 và Điều 10 của Hiến pháp hiện hành để quy định chung về Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, bổ sung chức năng phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời bổ sung các tổ chức xã hội
khác như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh... để quy định thống nhất về hệ thống chính trị của nhà nước ta
theo Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Tuy nhiên việc
quy định cần hết sức ngắn gọn.
- Về
một số vấn đề liên quan tới kỹ thuật,
Đề nghị giữ nguyên tên gọi của Chương
I “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế
độ chính trị”; chuyển Chương “Quyền và nghĩa vụ của công dân” lên sau
Chương I “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– Chế độ chính trị”; gộp Chương “Chế độ kinh tế” và Chương “văn
hoá, giáo dục và công nghệ” thành một Chương “Kinh
tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ
và môi trường”; bổ sung Chương về “các thiết chế độc lập”, bao gồm các
quy định về Hội đồng Hiến pháp, Kiểm toán nhà nước và có thể cả Viện
kiểm sát nhân dân; sửa đổi tên gọi của Chương “Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân” thành Chương “Chính quyền địa
phương”.
2. Về
các quy định của Hiến pháp liên quan tới Toà án
Liên quan tới chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của Toà án trong Hiến pháp, việc sửa đổi Hiến pháp
cần thể hiện được một số nội dung chủ yếu sau:
- Khẳng định Toà án là hệ thống cơ quan duy nhất
thực hiện quyền tư pháp của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Về nhiệm vụ của Toà
án cần thể hiện ngắn gọn, nhưng đảm bảo tính khái quát cao, phù hợp với
yêu cầu Hiến pháp là đạo luật gốc. Theo đó nên quy định : “Toà án nhân
dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của
mình, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ các
lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của tập thể; bảo vệ quyền con người
và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp
luật”.
- Quán triệt và thể chế hoá quan điểm của
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra về tổ chức
hệ thống Toà án
04 cấp là: Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực;
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Toà án nhân dân cấp cao và
Toà án nhân dân tối cao.
- Với tính chất là một hệ thống cơ quan thực hiện một bộ phận (nhánh)
quyền lực của nhà nước, cần quy định ngay trong Hiến pháp về cơ chế phân
bổ ngân sách hoạt động của Toà án. Theo đó, ngân
sách hoạt động của Toà án sẽ do Chánh án
Toà án nhân dân tối cao (hoặc
Toà án nhân dân tối cao) trao đổi, thống nhất với Thủ tướng Chính
phủ (hoặc Chính phủ) để trình Quốc hội phê chuẩn.
- Để đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử và địa vị
pháp lý của chức danh này, nghiên cứu để quy định ngay trong Hiến pháp:
Chủ tịch nước là người bổ nhiệm Thẩm phán. Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân sơ
thẩm khu vực có nhiệm kỳ dài hơn hiện nay (có thể là 10 năm), còn Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao và
Toà án nhân dân cấp cao thì nhiệm kỳ là suốt đời.
- Sửa đổi quy định của Hiến pháp về nguyên tắc “xét xử tập thể và quyết
định theo đa số” theo hướng “Toà án nhân dân xét
xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Quy định như vậy để phù hợp với tình hình hoạt động thực tế
của Toà án hiện nay, vì thực tiễn xét xử
của ngành Toà án nhân dân cho thấy, có những vụ án
chứng cứ rõ ràng, đơn giản, có giá ngạch thấp, cần được giải quyết, xét
xử nhanh chóng, kịp thời và có thể chỉ do một Thẩm phán giải quyết, xét
xử là được. Đây cũng là kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và có
thể nghiên cứu để áp dụng tại Việt Nam.
- Nghiên cứu để đưa quy định về luật sư công
trong Hiến pháp, nhằm bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người yếu thế trong xã hội, đảm bảo
thực hiện công bằng xã hội.
- Tiếp tục khẳng định Toà
án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam;
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các
Toà án nhân dân và Toà án
quân sự; đồng thời nghiên cứu để quy định thẩm quyền quyết định giám đốc
thẩm của Toà án nhân dân tối cao và
Toà án cấp cao có giá trị chung thẩm. Điều đó có
nghĩa rằng quyết định của cấp giám đốc thẩm sẽ không chỉ là “phá án” để
điều tra, xét xử lại như hiện nay mà quyết định giám đốc thẩm cũng sẽ có
nội dung giải quyết đối với những vụ án mà tài liệu chứng cứ đã rõ ràng
(đủ căn cứ pháp luật để ra phán quyết mà không cần thiết phải
huỷ để điều tra xét xử lại), nội dung giải quyết
trong quyết định giám đốc thẩm các vụ án đó sẽ có hiệu lực thi hành ngay
nếu không bị Toà án cấp trên hoặc Hội đồng Hiến
pháp xem xét lại.
Riêng đối với “Toà án
đặc biệt” thì không nên quy định Toà án nhân dân
tối cao có chức năng giám đốc việc xét xử của “Toà
án đặc biệt”, vì nếu xét thấy cần thiết phải thành lập, thì “Toà
án đăc biệt” sẽ có cơ chế hoạt động riêng do Quốc hội quy định, Hội đồng
xét xử và thủ tục tố tụng cũng có thể có tính chất “đặc biệt”, phù hợp
với yêu cầu, mục đích của việc thành lập Toà án
này.
- Cần quy định thẩm quyền của
Toà án nhân dân tối cao trong việc phát triển án
lệ. Theo đó, đối với những vấn đề chưa có quy định của pháp luật thì
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao và Uỷ ban Thẩm phán của các
Toà án cấp cao sẽ có giá trị áp dụng bắt buộc đối
với các Toà án cấp dưới.
- Tiếp tục quy định trong Hiến pháp thẩm
quyền giải thích pháp luật là của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và bổ sung thêm một chủ thể là Toà án
nhân dân tối cao được giải thích một số điều luật cụ thể thông qua việc
xét xử các vụ án giám đốc thẩm, tái thẩm mà phát hiện điều luật đó chưa
rõ ràng, cần giải thích để áp dụng pháp luật thống nhất.
- Về cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối
với hoạt động của Toà án, cần tiếp tục quy định:
“Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không
họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ
ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”. Riêng quy định tại khoản 2
Điều 135 của Hiến pháp hiện hành “Chánh án Toà
án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân” thì cần xem xét, quy định cho phù hợp với mô hình tổ
chức hệ thống Toà án 4 cấp theo tinh thần Nghị
quyết số 49-NQ/TW, cụ thể là: “Chánh án Toà án
nhân dân địa phương có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh”. Như vậy sẽ phù hợp với Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động
của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra là:
“Các Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực, Viện kiểm
sát nhân dân sơ thẩm khu vực và Toà án nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chịu sự lãnh đạo của đảng bộ
cấp tỉnh và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh”. Còn Chánh
án Toà án nhân dân cấp cao sẽ chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác với Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, nhưng vấn đề này không quy định trong Hiến pháp mà quy định trong
Luật Tổ chức Toà án.
|