Ths
Ths. Nguyễn Thị Minh
Khoa Thẩm phán |
Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII, kì hợp thứ 10 đã thông qua Luật Tố tụng
hành chính, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016, trong
đó có rất nhiều điểm mới được bổ sung, hoàn thiện như: trách nhiệm của Toàn án
về tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối
thoại; trình tự thủ tục giải quyết vụ án hoàn chỉnh theo thủ tục rút gọn...Trong
bài viết này chúng tôi xin giới thiệu về trình tự thủ tục giải quyết vụ án hành
chính theo thủ tục rút gọn tại cấp sơ thẩm.
Từ khóa: Luật tố tụng hành chính; hoạt động xét xử
Thủ tục rút gọn là quy định mới được bổ sung để cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp 2013, bảo đảm giải quyết nhanh gọn, kịp thời những vụ án đơn giản, chứng cứ
đã rõ ràng. Đồng thời, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,
tiết kiệm thời gian và chi phí cho đương sự cũng như Nhà nước. Luật tố tụng hành
chính năm 2015 có 23 chương, 372 điều, tăng 5 chương, 107 điều so với Luật TTHC
năm 2010.
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hành chính là giải quyết các vụ án hành chính khi
có các điều kiện theo quy định của Luật này nhằm rút ngắn về thời gian và thủ
tục so với thủ tục giải quyết vụ án hành chính thông thường nhưng vẫn đảm bảo
giải quyết vụ án đúng pháp luật.
Điểm chú trọng được điều chỉnh tại Luật tố tụng hành chính 2015 là việc giải
quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn khi có các điều kiện sau: vụ án có
tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo đủ căn cứ giải
quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều
có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài,
trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở Việt Nam đề
nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trong quá trình giải quyết vụ án
theo thủ tục rút gọn Tòa án áp dụng qui định riêng về thủ tục rút gọn, đồng thời
nhằm áp dụng những qui định khác của Luật TTHC không trái với quy định riêng về
thủ tục rút gọn để giải quyết. Đối với cấp sơ thẩm, trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 125 Luật này thì Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục
rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định đưa vụ án ra giải
quyết theo thủ tục rút gọn của Tòa án, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm
sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định.
Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu có các tình tiết sự
kiện phát sinh mà các đương sự không thống nhất mà cần xác minh, thu thập thêm
tài liệu, chứng cứ hoặc cần thiết tiền hành giám định;
cần xác định giá tài sản nếu các đương
sự không thống nhất về giá; cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu độc lập; phát sinh
đương sự cư trú ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường
hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án có quyển ra quyết định
chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Trường hợp chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn
chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường. Đây là qui định mang tính linh động, đảm
bảo quá trình tố tụng được thuận lợi. Tạo điều kiện tối đa cho đương sự khi tham
gia tố tụng tại Tòa án.
Trước hết, đối với đương sự, việc xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ tiết kiệm chi
phí, công sức cũng như giảm bớt những phiền phức, nhất là đối với người thắng
kiện vì đáng lẽ họ không phải gánh chịu những thiệt hại, phiền phức này. Từ đó
lòng tin của người dân vào hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung được
nâng lên, tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng. Khi việc khiếu kiện tham
gia tố tụng của người dân được thuận lợi thì khi đó họ sẽ chọn phương thức giải
quyết tranh chấp là khởi kiện tại Tòa án, có sự tham gia của cơ quan tố tụng.
Hơn nữa, đây cũng là điều kiện thuận lợi để người dân tham gia vào việc giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng.
Áp dụng thủ tục rút gọn sẽ giảm thời gian giải quyết vụ án nhưng vẫn đảm bảo
việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các bên,
giảm công việc của thẩm phán, thư ký đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của
tòa án. Với việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp; khiếu kiện, thủ tục rút
gọn góp phần làm giảm đáng kể số lượng án ngày càng gia tăng trong giai đoạn
hiện nay và xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn chỉ thực sự đạt được nếu vụ
án đã áp dụng thủ tục rút gọn không chuyển sang tục thủ tục chung để giải quyết.
Nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng phải áp
dụng thủ tục chung để giải quyết thì sẽ không rút ngắn được về thời gian, không
đơn giản được về thủ tục, thậm chí còn làm cho trình tự tố tụng kéo dài và phức
tạp hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Vì vậy, cần hạn chế việc
xác định không đúng các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn, rồi sau đó lại
chuyển thành thủ tục giải quyết vụ án thông thường theo thủ tục chung.
Thủ tục rút gọn, được quy định tại Chương
Chương XIV, Chương này gồm 6 điều (từ Điều 245 đến Điều 250) - Quy định về phạm
vi, điều kiện, trình tự, thủ tục, thành phần của Hội đồng xét xử tại cấp sơ thẩm
gồm: Thẩm phán, thư ký.
Kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn (Điều 249): Khi Thẩm phán
tiến hành đối thoại tại phiên tòa không thành thì tiến hành xét xử theo thủ tục
thông thường quy định tại mục 3 Chương XI của Luật TTHC – như phiên tòa sơ thẩm
thông thường.
Phiên toàn theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán thực hiện, không có sự tham gia
của Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên
tòa theo quy định tại Điều 169 của Luật này. Thẩm phán tiến hành đối thoại, trừ
trường hợp không tiến hành đối thoại được theo quy định tài Điều 135 của Luật
này. Trường hợp đương sự thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
Thẩm phán lập biên bản đối thoại thành và ra quyết định công nhận kết quả của
đối thoại thành theo quy định tại Điều 140 của Luật này. Trường hợp được sự
thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét
xử. Việc trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ
án được thực hiện theo quy định tại Mục 3 chương XI của Luật này. Trường hợp tại
phiên tòa mà phát sinh tình tiết mới quy định tại khoản 2 Điều 246 của Luật này
làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn thì Thẩm phán
xem xét, quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường và
thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại theo quy định tại khoản 3 Điều 246 của
Luật này.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ
tục rút gọn là 7 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp đương sự không có mặt tại
phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho
họ hoặc được niêm yết.
Thủ tục rút gọn là quy định mới được bổ sung để cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp 2013, thể hiện nỗ lực cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chúng
ta nhận thấy rằng, thủ tục rút gọn có ý nghĩa pháp lý và sâu sắc trong tình hình
hiện nay. Bởi lẽ, thủ tục này là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án, đơn giản, rõ ràng góp phần giải
quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài. Việc giải quyết vụ án nhanh chóng sẽ tạo
điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc,
công sức trong việc giải quyết các vụ án đơn giản, rõ ràng, tập trung vào việc
giải quyết các vụ án lớn, phức tạp hơn; đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian
và chi phí cho những người tham gia tố tụng mà vẫn đảm bảo tính pháp chế trong
việc giải quyết án hành chính.