URL: http%3A%2F%2Fhocvientoaan.edu.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fhvta%2F27676686%2F27677461?pers_id=28346379&item_id=265021047&p_details=1
 
Án lệ hình sự - một khoảng trống cần nghiên cứu áp dụng trong thực tiễn ở Việt Nam hiện nay
28/11/2018-05:01:00 PM
 
 Nguyễn Thanh Mận

Nguyễn Thanh Mận

Phó Giám đốc Học viện Tòa án

I.              ĐẶT VẤN ĐỀ

Án lệ chính thức được thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam là bước ngoặt lớn, đánh dấu sự đột phá trong quá trình cải cách tư pháp. Từ những định hướng về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng, những quy định của Hiến pháp và pháp luật, TANDTC đã và đang tích cực xây dựng các đề án, triển khai thực hiện một cách khẩn trương, quyết liệt, cho ra đời những án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, phục vụ cải cách tư pháp, nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ công lý, hướng tới xây dựng Tòa án thân thiện, gần dân, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân và xã hội trong giai đoạn mới.

Thứ nhất, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Việc quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật chỉ là một yếu tố cần nhưng chưa đủ của một nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được áp dụng một cách thống nhất. Việc Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật thể hiện ở những vụ án giống nhau thì phải được xử như nhau. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48) nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49), đã khẳng định: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. Đây là một sự chuyển biến lớn về đường lối. Việc thừa nhận và áp dụng án lệ chính là phương thức hiệu quả để khắc phục các khiếm khuyết của pháp luật, đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong xét xử, tạo tính ổn định, minh bạch và tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án.

Án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng từ lâu đã trở nên rất phổ biến và vượt ra khỏi biên giới của truyền thống thông luật, trở thành nguồn pháp luật của nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đó là kết quả tất yếu của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập, hợp tác diễn ra mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, chính trị và pháp luật của thế giới hiện đại. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các vấn đề về quan hệ tranh chấp, phát sinh trong hoạt động kinh tế, các loại hình tội phạm ở Việt Nam có xu hướng diễn biến phức tạp hơn với nhiều hình thức tinh vi hơn. Luật thành văn đã dần bộc lộ những lỗ hổng cần phải được bổ sung và hoàn thiện. Quán triệt sâu sắc quan điểm trong Nghị quyết số 48 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị là một yêu cầu cấp thiết. Thừa nhận và áp dụng án lệ là phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, theo quy định thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC có trách nhiệm hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, có thể thực hiện thông qua việc ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng pháp luật và cũng có thể thông qua tuyển chọn, công bố án lệ.

Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật thành văn trong xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nhưng vẫn tồn tại những vướng mắc chưa được giải quyết. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới là thừa nhận án lệ, nhằm giải quyết những vướng mắc trong hoạt động xét xử mà luật thành văn chưa rõ ràng hoặc chưa có quy phạm điều chỉnh. Án lệ đã và đang trở nên phổ biến, góp phần khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn. Chẳng hạn, đối với các nước theo hệ thống pháp luật Common law (Thông luật), đại diện là Anh và Mỹ. Án lệ ra đời từ thế kỷ thứ X, quốc gia đặt nền tảng cho sự ra đời của án lệ là Anh quốc. Mặc dù án lệ xuất hiện sớm nhưng hình thức án lệ của nước Anh đã thể hiện được giá trị nhất định so với các loại nguồn khác như: Án lệ mang tính thực tiễn cao; án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và kịp thời; án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng. Do đó, trong hệ thống pháp luật Common law, án lệ được coi là một trong những nguồn luật áp dụng bắt buộc. Với giá trị nêu trên, án lệ nhanh chóng được thừa nhận và áp dụng ở các hệ thống pháp luật khác trên thế giới như: Án lệ ở hệ thống pháp luật Cilvil law (châu Âu lục địa), án lệ ở các nước Bắc Âu, án lệ ở các quốc gia Đông Á như Nhật Bản… Riêng đối với lĩnh vực hình sự, các hệ thống pháp luật kể trên đều thừa nhận án lệ là nguồn của luật hình sự. Án lệ hình sự góp phần bổ sung, khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn hoặc giải quyết những vụ án có hành vi, tình tiết chưa thống nhất, còn có nhiều cách hiểu khác nhau.

Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, nhiều vụ án có cùng hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng còn tồn tại cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đưa đến hệ quả xét xử là khác nhau. Thực tiễn đó đặt ra nhu cầu áp dụng án lệ để giải quyết các vụ án hình sự là một yêu cầu tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu án lệ hình sự và hiểu thấu đáo về cách thức, quy trình xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là một công việc cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, hiện nay, việc lựa chọn, công bố và áp dụng theo Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP, Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 03). Việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự cũng tuân theo quy trình nay. Với quy trình trên, TANDTC đã ban hành được 04 án lệ hình sự (sau đây gọi là ALHS), trong đó 01 ALHS đã có hiệu lực pháp luật, 03 ALHS sẽ có hiệu lực từ ngày 03/12/2018. Kết quả này đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nỗ lực, quyết tâm cao của lãnh đạo hệ thống Tòa án.

Tuy nhiên, số lượng án lệ hình sự hiện nay còn quá ít. Nguyên nhân chính là do quá trình xây dựng, quy trình tuyển chọn hiện chưa hợp lý, thiếu các tiêu chí riêng biệt, việc áp dụng cũng chưa quy định rõ ràng, dứt khoát. Nhiều vấn đề, nội dung liên quan đến án lệ hình sự chưa được nghiên cứu, làm rõ. Chẳng hạn như chưa đưa ra được khái niệm án lệ hình sự, án lệ hình sự có những đặc điểm gì? Nội dung, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là gì? tại sao mới chỉ có 04 án lệ hình sự được tuyển chọn? Tại sao trong thực tiễn xét xử chưa có Tòa án nào áp dụng án lệ hình sự số 01 (ALHS số 1 đã có hiệu lực pháp luật)? làm thế nào để xây dựng được nhiều án lệ hình sự, làm thế nào để áp dụng án lệ hình sự có hiệu quả?. Trong phạm vi bài viết này tác giả khái quát những công trình nghiên cứu về án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, từ đó chỉ ra những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu về án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.

II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm của án lệ

Cuốn sách Precedent In law (Tạm dịch: Án lệ trong pháp luật), của Gernald J.Postema [1] đã đề cập đến vai trò quan trọng của án lệ trong hệ thống pháp luật. Án lệ được ví như là mạch máu của hệ thống pháp luật “life blood of a legal system”.

Gernald J.Postema phân tích quan điểm của Thomas Hobbes (1588 - 1679) (Học giả tiêu biểu của chủ nghĩa pháp luật thực chứng ở Anh) về án lệ. Gernald J.Postema cho rằng: Mặc dù Hobbes không trực tiếp đề cập đến khái niệm án lệ nhưng trong lý luận của ông đã cung cấp những cơ sở nổi bật cho chủ nghĩa pháp luật thực chứng phân tích lý luận về án lệ. Theo đó, toàn thể pháp luật là những mệnh lệnh, quyền ban hành pháp luật phụ thuộc vào chủ quyền tối cao của nhà nước, nhưng quyền này có thể ủy quyền cho cơ quan xét xử nhờ đó mà Thẩm phán có quyền ban hành pháp luật và pháp luật này có tính quyền lực. Khi một trường hợp nào đó chưa có luật do cơ quan quyền lực ban hành theo sự đồng thuận chung thì mỗi Thẩm phán sẽ được phép tạo ra luật trong hoạt động xét xử những vụ việc cụ thể. Bằng cách này, chính các Thẩm phán đã bắt chước chủ quyền nhà nước. Thẩm phán sáng tạo ra những quy định pháp luật mới thông qua những lập luận của riêng họ trong những vụ án cụ thể. Luật do Thẩm phán tạo ra có quyền uy và mệnh lệnh tương tự như những mệnh lệnh của cơ quan lập pháp tối cao của nhà nước tạo ra.

Cuốn sách Introduction, quoted by J.A.G. Pacock in The Ancient Constitution And the Feudal Law (Tạm dịch: Giới thiệu, trích dẫn bởi J.A.G. Pacock trong Hiến pháp cổ đại và Luật phong kiến) của Sir John Davies [2] đã đề cập đến khái niệm “án lệ”. Án lệ bắt nguồn từ khái niệm thông luật là gì? Thông luật của nước Anh chỉ là những tập quán chung của Vương quốc Anh trong đó, luật pháp chứa đựng những qui tắc xử sự chung.

Cuốn sách Commentaries (13th ed) on the Law of England (Tạm dịch: Bình luận về pháp luật của nước Anh) của Blackstone [3] đã đề cập đến những quan điểm chủ đạo về pháp luật. Pháp luật là những nguyên tắc chung và tập quán chung. Chính những Thẩm phán là những người có sự hiểu biết sâu rộng để nhận ra pháp luật là gì. Sự hiểu biết sâu rộng của các Thẩm phán xuất phát từ tính năng động sáng tạo và những kinh nghiệm xét xử và kinh nghiệm sống của chính Thẩm phán đó. Công trình nhấn mạnh sự hiểu biết sâu rộng của Thẩm phán, chính những Thẩm phán đó đã tạo ra pháp luật trong lịch sử của thông luật. Theo đó, khái niệm truyền thống về án lệ được hiểu như sau:

Thứ nhất, án lệ là những quyết định đã được tuyên bởi Tòa án có thẩm quyền. Đó chính là những quyết định của Thẩm phán.

Thứ hai, án lệ không phải là các quy phạm pháp luật nhưng án lệ làm sáng tỏ những câu hỏi về pháp luật. Án lệ đóng vai trò là phương tiện để Thẩm phán giải quyết vụ việc tương tự xảy ra sau. Thẩm phán có thể dựa vào các án lệ trước đây để đưa ra lý do cho quyết định trong vụ việc hiện tại.

Như vậy, khái niệm truyền thống về án lệ đã đòi hỏi về tính uy quyền của án lệ nhưng không giải thích vì sao án lệ có giá trị bắt buộc đối với các vụ việc nảy sinh sau.

Cuốn sách “Interpreting Precedents” (Tạm dịch: Giải thích các án lệ) của hai tác giả D.Neil Mac Cormick, Robert S.Summer [4] đã nêu khái niệm án lệ như sau: “Án lệ là các quyết định trước được sử dụng làm khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự về sau”. Đây là khái niệm bao trùm, khái quát, phù hợp cả truyền thống pháp luật common law và civil law.

Cuốn sách Jurisprudence Theory and context (Tạm dịch: Lý thuyết và thực tiễn tư pháp) của Brian Bix [5] đã phân tích quan điểm của Jeremy Bentham (1748 - 1832). Jeremy Bentham là một trong những nhà luật học đã có đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển của luật thành văn ở nước Anh. Tính hai mặt trong quan điểm của Bentham thể hiện: Một mặt, Bentham đòi hỏi việc ban hành pháp luật phải được thực hiện bởi cơ quan lập pháp. Hình thức của pháp luật phải là những văn bản quy phạm pháp luật. Bentham cho rằng vai trò của pháp luật là tạo lập những quy tắc ứng xử sự ổn định của những nguyên tắc được thừa nhận công khai. Mặt khác, Bentham còn bày tỏ quan điểm rất thất vọng vì sự tản mạn thiếu tính hệ thống của thông luật vì nó được thể hiện tản mạn thông qua hệ thống những án lệ của Tòa án.

Để làm rõ hơn những quan điểm của trường phái pháp luật thực chứng, công trình đã đề cập đến quan điểm của H.L.A.Hart (1907 - 1992), ông được xem là một trong những đại diện của trường phái pháp luật thực chứng. Hart đã đưa ra kết luận rằng, các Thẩm phán phải sử dụng quyền tự mình cân nhắc, để sáng tạo ra một quy định pháp luật, là một điều không thể tránh khỏi, bởi các quy định pháp luật thành văn còn chưa rõ ràng và còn bỏ ngỏ những nội hàm khái niệm của điều luật. Hart cũng cho rằng việc tạo ra pháp luật của cơ quan tư pháp trong một giới hạn vừa phải là một điều tốt, nó tạo ra tính mềm dẻo trong áp dụng pháp luật.

Cuốn sách The Rule of Precedent (Tạm dịch: Vai trò của án lệ) của Theodore M.Benditt [6] đã giải thích lý do tại sao các Thẩm phán lại áp dụng án lệ trong xét xử. Nếu Thẩm phán ra các quyết định không giống với quyết định trong án lệ của vụ án tương tự đã được xét xử thì Thẩm phán đó phải nêu được lý do quyết định của mình. Yêu cầu về tính nhất quán trong áp dụng pháp luật với mỗi chủ thể ra các quyết định phải được bảo đảm. Tuy nhiên, trong pháp luật, án lệ đòi hỏi tính thể chế, không chỉ đơn thuần một cá nhân Thẩm phán. Tính nhất quán trong áp dụng án lệ đòi hỏi Thẩm phán khác phải ra các quyết định giống nhau khi giải quyết các vụ án có tính chất tương tự nhau. Để thực hiện tốt yêu cầu trên, cần bảo đảm rất nhiều yếu tố liên quan. Đây cũng là vấn đề mà Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn nghiên cứu và hoàn thiện.

Cuốn sách Precedent in the Federal Republic of Germany, in “Interpreting Precedents A Comparative Study” (Tạm dịch: Án lệ của Cộng hòa Liên bang Đức, trong “giải thích án lệ một nghiên cứu so sánh) của Alexy, Robert and Ralf Dreier [7] đã trình bày quan điểm của Friedrich Carl von Savigny (1779 - 1861) về các loại nguồn của pháp luật, trong đó có đề cập tới vai trò hệ thống các quyết định, phán quyết của Tòa án đã có ảnh hưởng tới sự phát triển của pháp luật ở Đức và một số nước Civil law khác trong thế kỷ thứ XIX và XX. Cho đến nay, quan điểm của Savigny về vai trò của án lệ vẫn còn những giá trị lý luận và thực tiễn trong việc giải thích về vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Đức. Trong cuốn sách nổi tiếng của Savigny “nhiệm vụ trong thời đại của chúng ta với lập pháp và luật học”, ông đã đưa ra một hệ thống lý luận trong đó những vấn đề về án lệ và việc Thẩm phán sáng tạo pháp luật đã được tranh luận trong một thời gian dài. Tâm điểm nội dung quan điểm của Savigny về án lệ là: Thứ nhất, pháp luật có thể được hình thành bởi sự thừa nhận chung của cả cộng đồng; Thứ hai, Savigny quan niệm rằng không chỉ có nghị viện (cơ quan lập pháp) mà những Thẩm phán cũng có quyền đại diện cho nhân dân để tạo ra pháp luật. Để đơn giản hóa luật do Thẩm phán tạo ra từ các án lệ Savigny gọi là luật thực hành, luật thực tiễn.

Savigny và các học trò của ông theo trường phái lịch sử pháp luật đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về án lệ trong đó, ủng hộ việc Thẩm phán có quyền sáng tạo pháp luật phù hợp với bối cảnh của Đức trong thế kỷ thứ XIX và XX. Hệ thống những quan điểm này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới khoa học Luật học ở Đức.

Cuốn sách French Legal Method (Tạm dịch: Phương pháp luật của Pháp) của nhà luật học người Pháp, Eva Steiner [8]. Eva Steiner đã xoay quanh sự tranh luận về việc thừa nhận án lệ ở Pháp. Eva Steiner cho rằng việc tìm hiểu liệu rằng án lệ ở Pháp có phải là một nguồn luật hay không là một chủ đề không thể thiếu trong các nghiên cứu luật học, nó đồng nghĩa với các vấn đề đặt ra từ sự thừa nhận luật được hình thành trên cơ sở án lệ “case-law” ở Pháp. Thế nào là mối quan hệ giữa luật do cơ quan lập pháp ban hành và sự sáng tạo luật bởi Thẩm phán trong hệ thống pháp luật ở Pháp. Eva Steiner đã đặt vấn đề, liệu rằng có giới hạn nào cho việc Thẩm phán làm luật. Lý luận của Eva Steiner về án lệ nhấn mạnh ở một số vấn đề như; Thứ nhất, vị trí của án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp; Thứ hai, yếu tố tạo ra tính thuyết phục của án lệ, mối quan hệ giữa án lệ và luật thành văn; Thứ ba, tính hợp pháp của án lệ.

Như vậy, theo học thuyết về phân chia quyền lực ở Pháp, xét về khía cạnh vị trí của án lệ trong pháp luật Pháp, Thẩm phán không có quyền ban hành pháp luật, nếu Thẩm phán thực hiện quyền này thì đã xâm phạm đến quyền lực của cơ quan lập pháp.

Eva Steiner cho rằng có một số yếu tố tạo ra mức độ hiệu lực đối với án lệ như: Tính thứ bậc của Tòa án đã tuyên bản án; sự tách khỏi hướng xét xử các vụ việc trước đó; sự tuyên bố của nguyên tắc chung áp dụng liên quan đến hàng loạt các án lệ trước đó được viện dẫn bởi Tòa án đã đưa ra quyết định được coi là án lệ. Theo Eva Steiner, quan điểm chủ đạo về mối quan hệ giữa án lệ và luật do cơ quan lập pháp ban hành thì luật do cơ quan lập pháp ban hành sẽ có hiệu lực cao hơn. Tuy nhiên, chúng ta nên có cái nhìn biện chứng về mối quan hệ này. Hai dạng nguồn luật này trong hệ thống pháp luật sẽ hỗ trợ nhau trong mỗi lĩnh vực pháp luật [9].

Ngoài những quan điểm lý luận của Eva Steiner về án lệ, có một số công trình ở Pháp đã phân chia án lệ thành hai loại: Án lệ là giải pháp cho một vấn đề cụ thể và án lệ của việc giải thích pháp luật.

2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tiêu chí, đặc điểm, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ

Bài viết “Chế độ liên quan đến án lệ của Hàn Quốc” của Yoonmin Rah được trình bày tại Hội thảo về án lệ được tổ chức tại Đà Nẵng năm 2015, khẳng định: Hàn Quốc là một quốc gia thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa. Về nguyên tắc, luật thành văn là nguồn luật nhưng ngoài luật thành văn, án lệ có được coi nguồn luật hay không. Điều này có nghĩa là vấn đề án lệ có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với những vụ án tương tự sau này hay không đang được bàn luận theo hướng học thuật tại Hàn Quốc.

Về vấn đề án lệ có phải là nguồn luật hay không thì theo bài viết, tại Hàn Quốc cũng có hai trường phái khác nhau. Thuyết khẳng định cho rằng, án lệ được đặt tương đương với thông luật nên có thể coi là nguồn luật. Nhưng vẫn theo Thuyết này, có ý kiến lại cho rằng, án lệ tương đương với nguồn luật là do nó có chức năng hình thành nên luật, bổ sung những điểm còn thiếu sót của luật thành văn, có ý kiến cho rằng phán quyết của Tòa án cấp dưới trái với án lệ thì khả năng bị hủy án sẽ rất cao do vậy án lệ có thể xem là nguồn luật vì có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tòa án cấp dưới về mặt thực tế. Thuyết phủ định có quan điểm trái ngược, họ cho rằng án lệ không phải là nguồn luật là bởi vì, án lệ có hiệu lực bắt buộc trên thực tế đối với những vụ án tương tự nhưng nó cũng chỉ là kết quả của việc áp dụng luật đối với vụ án cụ thể và không thể coi án lệ là luật. Điều 8 Luật tổ chức Tòa án Hàn Quốc quy định “Nhận định trong xét xử của Tòa án cấp trên sẽ ràng buộc cấp dưới đối với vụ án đó”. Điều này có nghĩa án lệ không có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các vụ án tương tự và đây cũng là căn cứ để phủ nhận tính chất nguồn luật của án lệ. Việc có công nhận tính chất nguồn luật của án lệ hay không là một vấn đề quan trọng. Song cả hai ý kiến đều không có sự khác biệt ở điểm cho rằng án lệ dù là hình thức như thế nào chăng nữa đều có hiệu lực bắt buộc. Ở Hàn Quốc rất khó để coi án lệ có hiệu lực pháp lý bắt buộc như luật thành văn. Tuy nhiên trong thực tiễn án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án tối cao có hiệu lực bắt buộc mạnh mẽ đối với Tòa án cấp dưới. Do vậy ở Hàn Quốc, quan điểm chung của các nhà làm luật là, khi xét xử vụ án tương tự với vụ việc của án lệ, trước khi áp dụng theo kết luận của án lệ, Thẩm phán phải kiểm tra, xem xét một cách đầy đủ xem vụ án có cùng phạm trù với vụ việc của án lệ hay không, án lệ có phù hợp với thực trạng xã hội hiện tại hay không.

Bên cạnh đó, công trình còn nhấn mạnh: Ở Hàn Quốc, phán quyết của tất cả các Tòa án cũng được gọi là án lệ. Bản thân phán quyết của vụ án đặc thù nào đó cũng được gọi là án lệ, các phán quyết được tập hợp về các vụ án tương tự cũng được gọi là án lệ. Đôi khi chỉ những ý kiến, lập luận mang tính luật pháp của Tòa án được đúc rút trong phán quyết cũng được gọi là án lệ. Thông thường ở Hàn Quốc thuật ngữ án lệ mang ý nghĩa là những phán quyết của Tòa án tối cao (cơ quan xét xử cao nhất) của Tòa án Hàn Quốc.

Cuốn sách “Interpreting Precedents - A comparative study” (Tạm dịch Giải thích các án lệ - nghiên cứu so sánh) của D.Neil Mac Cormick (1997) [10] đã xây dựng khung lý thuyết cơ bản về án lệ, phân tích thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ ở một số quốc gia lớn trên thế giới như: Đức, Phần Lan, Pháp, Italy, Na Uy, Hà Lan, Tây Ban Nha…Trong đó, đã chỉ ra những tiêu chí, nguyên tắc cơ bản xây dựng và áp dụng án lệ.

Cuốn sách “Judicial Reasoning and The doctrine of Precedent in Autralia” (Lập luận tư pháp và nguyên tắc án lệ ở Úc) của tác giả Alastair MacAdam và John Pyke (1998) [11] đã phân tích đặc điểm xây dựng và áp dụng án lệ ở các nước common law. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề như: Cách thức xác định và phân biệt giữa phần ratio decidendi (lý do ra quyết định) và phần obiter dictum (lý lẽ nói thêm) trong bản án; Nguyên tắc stare decisis theo thứ bậc hệ thống Tòa án; Các trường hợp không áp dụng án lệ.

Luận án tiến sĩ Evaluation of the applicability of Common law approaches to precedent in VietNam (Tạm dịch: Đánh giá khả năng áp dụng án lệ ở hệ thống pháp luật Common law vào Việt Nam) của Đỗ Thị Mai Hạnh được hoàn thành tại Đại học Wollogong Australia (2011) đã phân tích đặc điểm của án lệ ở các nước common law; Làm rõ các đặc trưng trong hệ thống pháp luật và hệ thống Tòa án của Việt Nam. Từ đó, đưa ra những đánh giá về khả năng áp dụng án lệ vào Việt Nam.

III. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

3.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm và lịch sử ra đời của án lệ

Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ Triển khai án lệ vào công tác xét xử của Tòa án Việt Nam của Trương Hòa Bình - Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao (Chủ nhiệm, 2012) đã tập trung nghiên cứu lý luận về việc xây dựng và áp dụng án lệ, khái quát đặc điểm của án lệ. Công trình khái quát lịch sử ra đời và áp dụng án lệ của một số nước trên thế giới như Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, án lệ ở Úc, Anh, Nhật Bản; chỉ ra vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án Nhân dân và thực trạng sử dụng “án lệ” trong công tác xét xử các vụ án dân sự và hình sự tại Tòa án Việt Nam.

Về cách thức xây dựng và công bố án lệ, công trình đã khái quát ý nghĩa của việc xây dựng và công bố án lệ, chỉ ra thực trạng ban hành và công bố các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối cao ở Việt Nam trong thời gian qua. Theo đó, các quy định pháp luật tố tụng Việt Nam thì việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính ở Việt Nam được tiến hành một cách công khai trừ một số trường hợp ngoại lệ nhất định. Tuy nhiên, đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã được xét xử thì pháp luật lại không quy định buộc phải công khai cho toàn bộ mọi người biết.

Công trình nhấn mạnh, ở các nước có nền tư pháp phát triển như Canada, Pháp, Nhật Bản, Úc, Anh hay Mỹ, bản án, quyết định của Tòa án dù ở cấp xét xử nào cũng được đăng tải công khai, mọi người dân đều có quyền tra cứu, nghiên cứu và xem xét các phán quyết của Tòa án đã xử thì ở Việt Nam việc công bố công khai các bản án, quyết định xét xử của Tòa án còn hạn chế. Chỉ có các chủ thể có liên quan đến việc giải quyết và phán quyết của Tòa án mới được Tòa án gửi bản án.

Công trình cho rằng, ở Việt Nam chưa có án lệ nhưng hình thái ban đầu của án lệ đã xuất hiện khá lâu, đó là trong các báo cáo tham luận của các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án Nhân dân Tối cao, các báo cáo tổng kết và phương hướng hoạt động của hệ thống Tòa án Nhân dân hàng năm. Trong đó, đều chỉ ra trường hợp sai sót, thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, định hướng cho các Thẩm phán và TAND cấp dưới các ví dụ điển hình để thống nhất áp dụng khi xét xử.

Để thống nhất áp dụng pháp luật, đề tài đã chỉ ra cần phải tổ chức các buổi tập huấn. Trong các buổi tập huấn này, nhiều vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử về cách hiểu và áp dụng pháp luật, về đánh giá chứng cứ, về sự giải thích pháp luật cũng được đưa ra thảo luận, trao đổi nhằm tháo gỡ khó khăn và thống nhất áp dụng trong hoạt động xét xử trên phạm vi từng tỉnh và quốc gia.

Về thực trạng áp dụng “án lệ” trong xét xử các vụ án hình sự ở Tòa án Việt Nam, công trình cũng khẳng định Việt Nam chưa thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật nên trong thực tiễn xét xử tại Tòa án còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thống nhất trong việc vận dụng án lệ vào xét xử. Tuy nhiên, với việc đưa ra các vụ án điển hình trong báo cáo tổng kết hàng năm, Tòa án Nhân dân Tối cao đã hướng dẫn đường lối xét xử cho các Tòa án cấp dưới rút kinh nghiệm và thống nhất.

Bài viết “Về án lệ của Việt Nam hiện nay” của Đặng Quang Phương, nguyên Phó Chánh án thường trực TANDTC [12], tại Tọa đàm tìm hiểu án lệ của Nhật bản, được tổ chức tại trụ sở TANDTC. Tác giả đã nêu khái quát quá trình nhận thức và áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả kể từ khi có Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, xác định thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Tiếp theo, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở đó ngày 31 tháng 10 năm 2012 đã ban hành Quyết định số 74/QĐ-TANDTC phê duyệt đề án phát triển án lệ. Đến ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc Hội nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua luật số 62/2014/QH13 “Luật Tổ chức Tòa án nhân dân”. Theo đó Luật đã ghi nhận “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ đề các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (điểm c khoản 2 Điều 22, Luật Tổ chức TAND). Tiếp theo đó ngày 28 tháng 10 năm 2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Sau đó Chánh án Tòa án TANDTC đã ban hành các quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 và quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 với 16 án lệ.

Tác giả cũng đã nêu quan điểm cho rằng cần thiết phải thừa nhận án lệ ở Việt Nam. Theo tác giả, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng được cải thiện cả về lượng và về chất, tuy nhiên vẫn chưa thể hoàn thiện ngay được. Mặc dù, các văn bản pháp luật được ban hành càng ngày càng quy định cụ thể hơn, nhiều đạo luật đã có hiệu lực thi hành, nhưng nhiều điều luật còn quy định khung hay còn chung chung cần phải chờ cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn thi hành. Làm sao để khác phục được những vấn đề trên? Theo tác giả, án lệ là phương thức mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, đưa ra đường lối xét xử thống nhất. Tác giả đã nhận định: Áp dụng án lệ ở Việt Nam là quy luật tất yếu, khách quan. Bài viết đã khái quát quá trình hình thành và phát triển án lệ ở Việt Nam. Việt Nam phải xây dựng và áp dụng án lệ nhằm mục tiêu khắc phục những hạn chế của luật thành văn.

Bài viết “Nhận thức chung về án lệ, tầm quan trọng của án lệ trong công tác xét xử, khái quát các trường phái án lệ trên thế giới” của Nguyễn Văn Cường (2009) [13], nhấn mạnh: Việc sử dụng án lệ trong công tác xét xử không còn là vấn đề mới. Thực tế, việc áp dụng án lệ đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm án lệ còn ít được nhắc đến, nhưng án lệ cũng đã được áp dụng trong thực tiễn xét xử. Về cơ bản, các nước đều dựa trên những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật dân sự “Civil Law”. Tuy nhiên, cách sử dụng án lệ ở mỗi nước có những đặc trưng khác nhau, kể cả những nước trong cùng một hệ thống cũng có cách vận dụng khá uyển chuyển. Vai trò của án lệ ngày càng phát triển, kể cả những nước theo hệ thống luật dân sự “Civil Law”, sự phân chia các hệ thống pháp luật án lệ “Common Law” và dân sự “Civil Law” ngày càng mang tính tương đối, thậm chí, có nước vừa theo hệ thống pháp luật án lệ “Common Law” và vừa theo hệ thống luật dân sự “Civil Law”, như ở Tây Ban Nha, Mexico. Dần dần, ranh giới sự phân biệt giữa các nước theo hệ thống Common Law hay theo hệ thống Civil Law sẽ mất đi. Bởi lẽ, về mặt lý thuyết, nhiều nước không còn thừa nhận án lệ, nhưng thực tế vẫn sử dụng án lệ trong thực tiễn xét xử, để lấp những khoảng trống chưa có văn bản pháp luật quy định. Điều này, được lý giải một cách đơn giản, bởi vì nguyên tắc áp dụng chung đối với bất kỳ một nền tư pháp nào, đó là việc áp dụng thống nhất pháp luật. Như vậy, việc áp dụng án lệ của các nước trên thế giới đã mang tính phổ biến và nhằm khỏa lấp những khiếm khuyết mà hệ thống luật thành văn còn hạn chế trong việc điều chỉnh các quan hệ trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Bài viết “Vấn đề áp dụng án lệ ở Việt Nam” của Dương Bích Ngọc và Nguyễn Thị Thủy (2009) đã trình bày khái niệm án lệ. “Án lệ là hệ thống các quy phạm và nguyên tắc được hình thành và áp dụng bởi các Thẩm phán trong quá trình xét xử và đưa ra phán quyết”.[14] Trên cơ sở đó, công trình đã đề cập đến những đặc điểm của án lệ: Thứ nhất, án lệ do Thẩm phán tạo ra và để giải quyết các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, không phải bản án của bất cứ cấp Tòa án nào cũng được coi là án lệ mà nó phải được thông qua một số trình tự, thủ tục nhất định tùy theo quy định của mỗi quốc gia; Thứ hai, án lệ có tính khuôn mẫu, điều này thể hiện ở việc khi bản án được công nhận là án lệ thì nó sẽ được lấy làm khuôn mẫu cho các vụ việc có tính chất tương tự và sẽ được sử dụng nhiều lần; Thứ ba, án lệ có tính chất bắt buộc, có nghĩa là nếu bản án được đem ra sử dụng cho vụ việc có tính chất tương tự, nhưng chỉ để tham khảo thì không được coi là án lệ mà bản án đó phải là khuôn mẫu buộc các Thẩm phán phải áp dụng đối với các vụ án tương tự sau này. Như vậy ngoài việc đưa ra khái niệm về án lệ thì bài viết cũng đã đưa ra được những đặc trưng chung của án lệ, tuy nhiên vấn đề án lệ cụ thể trong từng lĩnh vực thì chưa được đề cập.

Bài viết nhấn mạnh: Đối với Việt Nam, việc áp dụng án lệ là cần thiết. Án lệ chính thức được coi là nguồn luật ở Việt Nam vào thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945). Vào giai đoạn này, án lệ đã được sưu tập và công bố, điển hình là Tập án lệ Bắc kì (năm 1927) và Trung kỳ (năm 1941). Đến khi nhà nước phong kiến nửa thuộc địa ở Việt Nam sụp đổ, các tập án lệ cũng mất giá trị pháp lý. Từ đó đến nay, án lệ không được coi là nguồn của pháp luật Việt Nam.

Xây dựng án lệ cũng đồng nghĩa với việc Tòa án đang góp phần hoàn thiện và phát triển luật thành văn trong tương lai. Án lệ đóng vai trò quan trọng trong xét xử. Sử dụng án lệ sẽ đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Bài viết đã dự báo khả năng áp dụng án lệ ở Việt Nam. Cũng theo tác giả, án lệ nên được áp dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, không áp dụng rập khuôn, máy móc án lệ và các nguyên tắc sử dụng án lệ của bất kì nước nào, hơn thế nữa Việt Nam sẽ tận dụng được các ưu điểm và hạn chế tối đa các nhược điểm của án lệ ở các nước đã áp dụng. Trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật phát triển lâu đời, trong đó án lệ đã được sử dụng hàng trăm năm nay và liên tục được sửa đổi để ngày càng hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, cần đưa án lệ vào áp dụng ở Việt Nam nhưng không nên áp dụng hoàn toàn theo hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào. Bài viết cũng cho rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam có thể áp dụng các nguyên tắc sau khi áp dụng án lệ cho hệ thống pháp luật: Thứ nhất, nguyên tắc Stare decisis, hai vụ việc với các tình tiết chính tương tự nhau sẽ phải có kết quả xét xử như nhau; thứ hai, án lệ sử dụng phải có tính bắt buộc; thứ ba, Tòa án cấp dưới có nghĩa vụ phải áp dụng án lệ của Tòa án cấp trên; thứ tư, trong vụ kiện, các bên có thể viện dẫn nhiều án lệ; thứ năm, luật thành văn có giá trị cao hơn án lệ; thứ sáu, việc áp dụng án lệ phải đảm bảo được tính chắc chắn và ổn định của pháp luật.

Luận án Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam của Nguyễn Văn Nam (2011) [15] tập trung nghiên cứu khía cạnh lý luận và thực tiễn áp dụng án lệ, giới hạn trong bốn hệ thống pháp luật cụ thể. Trong đó, hai hệ thống pháp luật Anh, Mỹ được coi như những hệ thống pháp luật chính đại diện cho hệ thống thông luật. Hai hệ thống pháp luật nước ngoài khác cũng được đề cập nghiên cứu trong luận án là: Hệ thống pháp luật của nước Pháp và Đức đại diện cho truyền thống dân luật. Sự phân nhóm các hệ thống pháp luật khi tiếp cận dưới khía cạnh về án lệ trong luận án dựa trên quan niệm chung về sự phân chia các hệ thống pháp luật trong luật so sánh. Do đó, luận án không đi sâu phân tích về thực tiễn áp dụng án lệ nói chung, ALHS nói riêng trong thực tiễn Việt Nam.

Công trình nghiên cứu các quan điểm lý luận về án lệ trong cả hai hệ thống thông luật và luật dân sự thành văn. Quan điểm lý luận về án lệ trong hệ thống pháp luật các nước được chọn nghiên cứu trong đề tài (Anh, Mỹ, Pháp, Đức) sẽ được nghiên cứu tập trung ở các quan điểm lý luận mang tính truyền thống về khía cạnh tính pháp lý của án lệ với tư cách là một nguồn luật. Những quan điểm lý luận này ít nhiều đã tác động đến thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng án lệ trong hệ thống pháp luật các nước nói trên.

Về khía cạnh thực tiễn của án lệ, luận án chủ yếu tập trung phân tích sự thực hành về án lệ dưới góc độ chung, luận án không giới hạn tìm hiểu về án lệ trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể trong bốn hệ thống pháp luật nước ngoài đã được lựa chọn trong phạm vi nghiên cứu. Để khái quát về khía cạnh thực tiễn của án lệ trong các hệ thống pháp luật, một yêu cầu cần thiết là cần phải hiểu biết khái quát về tổ chức hệ thống Tòa án của các nước đó. Ví dụ, luận án đã phân tích thực tiễn về án lệ của Tòa án tối cao nước Mỹ, Tòa án Hiến pháp của nước Đức. Thực tiễn về án lệ trong các hệ thống pháp luật được nghiên cứu trong luận án đã được phân tích và so sánh trên cơ sở xác định án lệ ở nước đó có tính chất bắt buộc như luật hay chỉ có giá trị tham khảo, như là nguồn luật thứ yếu.

Luận án không tập trung nghiên cứu chuyên sâu một lĩnh vực, ngành luật cụ thể nào trong pháp luật dưới khía cạnh án lệ. Do đó, đôi khi trong luận án những án lệ được đem ra minh họa so sánh, để minh họa về thực tiễn mà không cần đi sâu vào nội dung chi tiết của nó. Về vai trò của án lệ đối với đào tạo nghề luật, luận án tập trung làm rõ vai trò của án lệ được sử dụng trong đào tạo luật ở bốn hệ thống pháp luật (Anh, Mỹ, Pháp, Đức). Từ những nội dung đó, nghiên cứu của luận án đã đưa ra những kiến nghị đối với việc sử dụng án lệ trong đào tạo luật ở Việt Nam.

Một trong những nội dung quan trọng của luận án là nhằm tìm ra những kiến nghị đối với Việt Nam. Tuy nhiên, luận án không chỉ đưa ra những kiến nghị đơn thuần cho việc tạo lập và sử dụng án lệ ở Việt Nam. Những kiến nghị về việc thừa nhận và áp dụng án lệ đối với Việt Nam được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, so sánh học thuyết về án lệ của những hệ thống pháp luật được nêu ra trong đề tài. Luận án còn dành một phần để khái quát về hệ thống Tòa án Việt Nam, trong đó tập trung vào chức năng, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử và vai trò phát triển án lệ của TANDTC. Luận án chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về lý luận và thực tiễn thừa nhận án lệ ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Sự minh họa về thực tiễn áp dụng tiền lệ pháp ở Việt Nam được sử dụng trong luận án không giới hạn ở một lĩnh vực pháp luật cụ thể. Tuy nhiên, qua nghiên cứu về thực tiễn thừa nhận, xây dựng và áp dụng án lệ của các quốc gia trên thế giới, luận án đã phân tích chỉ rõ những kinh nghiệm rất có giá trị đối với Việt Nam

Bài viết “Quy định về án lệ trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 - nhìn từ góc độ bản chất của án lệ” của Đậu Công Hiệp và Hà Thị Phương Trà [16] đã chỉ ra những hạn chế của quy định pháp luật liên quan đến hoạt động xây dựng án lệ của Tòa án như: Thẩm quyền thông qua án lệ của TANDTC không làm thay đổi nội dung án lệ; pháp luật Việt Nam chưa có quy định chính thức thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án. Bài viết đã chỉ ra những khó khăn trong việc đánh giá một bản án, quyết định mang tính chuẩn mực.

Cuốn sách “Xã hội học pháp luật” của Võ Khánh Vinh [17]. Ngoài việc đưa ra phương pháp luận về nghiên cứu xã hội học pháp luật, những đặc điểm cơ bản của xã hội học pháp luật của các nước trên thế giới, vai trò chức năng của pháp luật, chính sách pháp luật…Tác giả cũng làm rõ những vấn đề quan trọng có liên quan như áp dụng pháp luật tiếp cận xã hội học, các chủ thể của hoạt động áp dụng pháp luật, các điều kiện áp dụng pháp luật, hoạt động thực tiễn của người áp dụng pháp luật. Cuốn sách là nguồn tài liệu thiết thực trong quá trình nghiên cứu về ALHS và trên cơ sở khoa học của cuốn sách cùng với sự nghiên cứu thực tiễn xây dựng ALHS của các nước trên thế giới, từ đó đưa ra được những giải pháp thiết thực cho việc xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam hiện nay.

Cuốn sách “Luật hình sự so sánh” của Hồ Sỹ Sơn (2018) [18] đã so sánh pháp luật hình sự, thực tiễn xét xử hình sự và các học thuyết pháp lý hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa Tây Ban Nha, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Cộng hòa Thụy Sỹ, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Bên cạnh đó tác giả cũng phân tích các chế định cơ bản thuộc phần chung BLHS như nguồn của luật hình sự; tội phạm; chủ thể của tội phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm; đồng phạm; hình phạt; các loại hình phạt; quyết định hình phạt được nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây là những nội dung quan trọng khi nghiên cứu về án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tiêu chí, quy trình lựa chọn, đặc điểm, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ

Bài viết “Án lệ Nhật Bản và một số vấn đề đặt ra khi đưa án lệ vào công tác xét xử tại Tòa án Việt Nam” của Nguyễn Văn Cường (2009) [19].

Bài viết khẳng định, Nhật Bản là nước theo hệ thống pháp luật dân sự Civil Law. Vì vậy, về nguyên tắc, những phán quyết của Tòa án cấp trên của Nhật Bản đã có hiệu lực pháp luật được coi là “án lệ”, nhưng không phải là nguồn luật. Các Thẩm phán Tòa án cấp dưới không có nghĩa vụ phải chấp hành tuân thủ bản án, quyết định của Tòa án cấp trên, tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử thì vẫn có có sự ảnh hưởng rất lớn. Thông thường, các bản án, quyết định của Tòa án Tối cao của Nhật Bản được Tòa án các cấp tuân thủ khi xét xử vụ án cụ thể có tình tiết tương tự giống nhau và được trích dẫn những phán quyết đó trong phần nhận định.

Trong vụ án có nội dung tương tự, đã có phán quyết của Tòa án cấp trên, nhưng Tòa án cấp dưới không tuân thủ theo đường lối giải quyết của Tòa cấp trên, khi có kháng cáo của bị cáo, đương sự thì sẽ thuộc thẩm quyền Tòa án cấp trên xem xét. Khi xét xử, Tòa án cấp trên thấy rằng, Tòa án cấp dưới áp dụng không đúng văn bản pháp luật, không tuân thủ theo nhận định của bản án tương tự trước đó của Tòa án cấp trên, thì Tòa cấp trên sẽ hủy bỏ bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới, với lý do Tòa án cấp dưới áp dụng không đúng quy định của pháp luật. Trong vụ án có nội dung tương tự và đã có phán quyết của Tòa án cấp trên, nhưng Tòa án cấp dưới không tuân thủ theo đường lối giải quyết của Tòa án cấp trên nhưng Tòa án cấp dưới chỉ ra rằng, bản án, quyết định của Tòa án cấp trên vi phạm pháp luật, không phù hợp với thực tế, thì khi xem xét lại bản án, quyết định này, Tòa án cấp trên không hủy bỏ bản án của Tòa án cấp dưới và bản án này có thể được xem như án lệ, thay thế cho án lệ trước (vì án lệ trước đó mắc phải sai lầm nhất định trong việc áp dụng pháp luật).

Qua nghiên cứu áp dụng án lệ của một số nước trên thế giới, điểm hình là án lệ Nhật Bản, chiếu theo hướng dẫn áp dụng của Hệ thống Tòa án Việt Nam, bài viết cho rằng để đưa án lệ vào công tác xét xử của Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp cần phải triển khai những vấn đề: Trước tiên, phải lựa chọn phương án sử dụng án lệ cho phù hợp; thứ hai, phải xây dựng và hướng dẫn pháp luật đưa án lệ vào công tác xét xử; thứ ba, cần duy trì sức mạnh của án lệ; thứ tư, công bố “án lệ” và những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp; thứ năm, nâng cao ý thức của các Thẩm phán về việc tôn trọng án lệ; thứ sáu, tăng cường hiểu biết về án lệ của Kiểm sát viên và Luật sư.

Bài viết “Án lệ của Tòa án tối cao - Kinh nghiệm của Pháp đối với sự phát triển án lệ tại Việt Nam” của Đỗ Văn Đại số [20] đã tập trung phân tích các nội dung chủ yếu về xây dựng và áp dụng án lệ. Bài viết đã so sánh án lệ ở Pháp với án lệ ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh chức năng xây dựng, triển khai án lệ của Tòa án tối cao, đồng thời chỉ ra cách thức xây dựng và sử dụng án lệ của Tòa án tối cao.

Bài viết “Bàn về tiêu chí, quy trình tuyển chọn án lệ” của Trần Văn Tuân (2015) [21] đã bàn về tiêu chí quy trình tuyển chọn án lệ trên cơ sở của Luật tổ chức TAND năm 2014 tại điểm c khoản 2 Điều 22. Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.  Bài viết khẳng định, việc áp dụng án lệ có mục đích và ý nghĩa, tác dụng quan trọng trong hoạt động của các Tòa án, nhằm nâng cao chất lượng xét cử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.Trên cơ sở đó chỉ ra khi xét xử các vụ án ngoài việc xem xét áp dụng các quy định pháp luật, các Thẩm phán còn phải nghiên cứu áp dụng án lệ trong các vụ án cụ thể để đưa ra phán quyết, quyết định đúng quy định của pháp luật phù hợp với bản án đã được lựa chọn là án lệ, như vậy mới đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Việc công bố án lệ còn giúp người dân được tiếp cận với các bản án thể hiện tính công khai minh bạch trong hoạt động xét của Tòa án. Qua đó, người dân có thể nhận biết được đường lối xét xử, dự báo kết quả của những vụ án tương tự có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ.

Bài viết ngoài việc khẳng định vai trò của án lệ cũng đã nêu lên những tiêu chí tuyển chọn án lệ. Thứ nhất, án lệ là những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; đặc biệt là những quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các bản án của các Tòa án giải quyết các vụ việc mà pháp luật chưa có quy định điều chỉnh hoặc tuy đã có quy định, nhưng không rõ ràng, cụ thể, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau; thứ hai, bản án được chọn làm án lệ phải là bản án có tính chất điển hình, mẫu mực về mọi mặt như tính chất, mức độ phức tạp, quan hệ pháp luật tranh chấp, mức độ ảnh hưởng đến tình hình an ninh xã hội và đặc biệt là bản án đó đã chỉ ra những nguyên tắc ứng xử để làm tiền đề hình thành nguyên tắc đường lối giải quyết những vụ án tương tự góp phần giữ vững ổn định và phát triển đời sống xã hội; thứ ba, bản án là án lệ phải là bản án được dư luận, nhân dân đồng tính có tính khả thi và thuyết phục cao, bị cáo hoặc các đương sự tự nguyện thi hành; thứ tư là ngoài các tiêu chí về nội dung thì bản án được chọn làm án lệ cũng phải bảo đảm tiêu chí đạt chất lượng về mặt hình thức văn bản; kết cấu kỹ thuật của bản án được lựa chọn làm án lệ phải là bản án được viết đúng mẫu văn bản do Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân nhân tối cao quy định đảm bảo rõ ràng lập luận chặt chẽ, logic, đặc biệt là đã chỉ dẫn ra được điều luật cần áp dụng từ ngữ trong bản án phải dễ hiểu, khúc triết không có sai sót bổ sung.

Về quy định tuyển chọn án lệ, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản quy định cụ thể về quy trình ban hành án lệ, xây dựng cơ chế tuyển chọn án lệ, bảo đảm nguyên tắc công khai dân chủ, minh bạch và khoa học để lựa chọn được những bản án thực sự mẫu mực làm án lệ. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì các Tòa án, kể cả Tòa án nhân dân cấp huyện đều có thể được lựa chọn làm án lệ, nếu đáp ứng được các tiêu chí của án lệ và việc lựa chọn án lệ phải được thực hiện thường xuyên định kỳ và được tiến hành từ dưới lên. Trên cơ sở đó, đề xuất quy trình chọn án lệ: Thứ nhất, đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Tòa án Quân sự cấp tương đương, đồng chí Chánh án phải có nhiệm vụ 6 tháng một lần tổ chức tổng kết lựa chọn các bản án thuộc thẩm quyền có đủ các tiêu chí đưa ra Ủy ban Thẩm phán lựa chọn, lập danh sách đề xuất để Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét lựa chọn làm án lệ. Việc lựa chọn phải đảm bảo nguyên tắc công khai minh bạch theo đa số và trước khi Tòa án tỉnh gửi danh sách các bản án trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải công bố trên cổng thông tin điện tử của Tòa án và lấy ý kiến rộng rãi; thứ hai, đối với Tòa án nhân dân cấp cao, trong thời hạn 6 tháng một lần, Chánh tòa các Tòa chuyên trách có nhiệm vụ căn cứ vào các tiêu chí của án lệ lựa chọn các bản án quyết định của các Tòa chuyên tách để trình Chánh án đưa ra Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp cao xem xét, lựa chọn sau đó lập danh sách trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn làm án lệ; thứ ba, đối với Tòa án nhân dân tối cao, quy định tại Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết, lựa chọn, tuyển chọn và ban hành án lệ. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành quy định về các tiêu chí của án lệ và quy trình tuyển chọn án lệ.

Bài viết “Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam” của Chu Thành Quang đăng trên kỷ yếu Hội thảo Án lệ - lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước được tổ chức tại Đại học Luật Hà Nội (2017) [22] đã phân tích quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam, theo đó quy trình xây dựng và công bố án lệ gồm 07 bước. Về nguyên tắc áp dụng án lệ dựa trên căn cứ pháp lý Điều 8 của Nghị quyết số 03. Việc nghiên cứu, viện dẫn án lệ khi xét xử là yêu cầu đối với Thẩm phán, Hội thẩm đã được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật tổ chức TAND năm 2014. Vì vậy, trừ khi Hội đồng xét xử đưa ra được những phân tích, lập luận và nêu rõ lý do trong bản án, quyết định về việc không viện dẫn, tuân theo án lệ khi giải quyết những vụ việc tương tự; bằng không, phán quyết của Hội đồng xét xử sẽ đối diện với nguy cơ xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm.

Bài viết “Thách thức và định hướng triển khai áp dụng án lệ ở Việt Nam” của Châu Hoàng Thân [23] đã phân tích những khó khăn khi triển khai áp dụng án lệ ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc chưa thống nhất về nguồn luật án lệ, chưa trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cho Tòa án, chất lượng bản án còn thấp, hơn nữa phải kể đến khó khăn từ những quy định của pháp luật tố tụng… Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định của Quyết định số 74/QĐ - TANDTC năm 2012 và Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP năm 2015.

Luận án tiến sĩ Chức năng tạo lập án lệ của Tòa án của Đỗ Thanh Trung [24] đã hệ thống hóa nền tảng lý luận cơ bản về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án ở các nước common law và civil law. Thông qua đó, luận án phân tích, đánh giá thực trạng chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án ở Việt Nam; đưa ra các kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án, đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng này của Tòa án ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã cung cấp khái quát nhất về chức năng xây dựng và áp dụng án lệ của Tòa án. Đây sẽ là nội dung có thể tham khảo khi bàn về quy trình xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam.

Cuốn sách Nguồn của luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Anh Tuấn (2010) [25] là công trình nghiên cứu đề cập một cách tương đối toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của luật hình sự Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích, làm rõ mặt lý luận nội hàm khái niệm nguồn luật, khái niệm và các đặc điểm của nguồn luật hình sự, các loại nguồn của luật hình sự cụ thể của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới. Công trình đã khảo sát thực trạng nguồn của luật hình sự Việt Nam từ trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Công trình nhấn mạnh, việc nghiên cứu nguồn luật hình sự Việt Nam cần thiết phải được đặt trong bối cảnh chung của nguồn luật hình các nước khác trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp và Cộng hòa liên bang Nga. Theo đó, dù theo hệ thống luật nào, thì các quốc gia trên vẫn coi án lệ là một trong những nguồn của luật hình sự.

Ở Việt Nam, công trình khẳng định, khó khăn trước tiên là chưa có truyền thống án lệ mặc dù án lệ đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nước Nhà và pháp luật Việt Nam. Đã có một số án lệ được ghi nhận trong nguồn của luật hình sự Việt Nam trước năm 1945. Tuy nhiên, so với luật thành văn, vị trí, vai trò của án lệ có thể nói là không đáng kể. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985, án lệ cũng được thừa nhận như một loại nguồn chính thức nhưng vai trò của nó ngày càng trở nên mờ nhạt và sau đó bị loại bỏ hẳn (ít nhất là trên phương diện lý luận) trong giai đoạn sau năm 1985 đến thời gian gần đây. Mặt khác, khái niệm “án lệ” trong luật hình sự Việt Nam ở giai đoạn nó được chính thức thừa nhận cũng không hẳn phù hợp với quan niệm chung về án lệ trên thế giới. Án lệ theo quan niệm truyền thống còn bắt nguồn từ sự áp dụng lặp lại các tập quán còn “án lệ ở Việt Nam” bắt nguồn từ sự vận dụng đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và luôn đi kèm với đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hơn nữa, án lệ giai đoạn này, thực chất, cũng không có giá trị pháp lý bắt buộc, ràng buộc các Thẩm phán trong thực tiễn xét xử của họ. Một vấn đề khó khăn khác cũng được đặt ra, liên quan đến việc chính thức thừa nhận án lệ là những bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải thích luật. Không giải thích về luật được áp dụng cũng đồng nghĩa với việc hạn chế về tư duy án lệ, thậm chí làm triệt tiêu sự phát triển của án lệ nói chung.

Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng các lý thuyết khoa học pháp lý hình sự có vai trò rất lớn đối với sự phát triển nguồn luật hình sự, không chỉ với nguồn luật thành văn mà đối với án lệ, ảnh hưởng của nó cũng rất đáng kể. Sở dĩ một bản án có thể trở thành án lệ vì những lập luận được đưa ra trong bản án đó được xem là mẫu mực có thể vận dụng vào giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Người đưa ra án lệ, trong trường hợp này không chỉ là một Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử thông thường mà thực sự là nhà khoa học tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra định hướng cho sự phát triển của pháp luật dựa trên cơ sở thực tiễn. Khó có thể cho rằng, án lệ tạo nên sự tùy tiện của hoạt động xét xử bởi bản thân sự hình thành án lệ đã là khoa học - khoa học được rút ra trực tiếp từ hoạt động thực tiễn.

Bài viết Nội dung, cách thức xây dựng và áp dụng ALHS số 01 của Trần Thị Quyên đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Án lệ - Lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước [26]. Thông qua phân tích ALHS số 01đã được TANDTC công bố, bài viết đã phân tích các khía cạnh về nội dung, cách thức, trình tự xây dựng và áp dụng án lệ là cần thiết, một mặt giúp nhận thức rõ hơn các vấn đề lý luận của án lệ, mặt khác đánh giá được khả năng áp dụng trong thực tiễn của ALHS số 01. Án lệ này được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tác giả bài viết nhấn mạnh: Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta mới chỉ thừa nhận án lệ giải thích, chưa thừa nhận án lệ tạo ra nguyên tắc mới, nên với ALHS số 01đã góp phần giải thích rõ ràng hai quy định trong BLHS năm 1999 có nhiều “điểm mờ”, khắc phục những khó khăn trong thực tiễn giải quyết các vụ việc có nét tương tự với vụ việc trong ALHS số 01.

Bài viết của tác giả Trần Thị Quyên là một trong số ít những công trình nghiên cứu về cách thức xây dựng và áp dụng ALHS số 01. Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi của một tham luận Hội thảo nên bài viết mới chỉ dừng lại ở những vấn đề khái lược nhất về xây dựng và áp dụng ALHS số 01.

III. NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1. Nhận xét tổng quát

Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về án lệ, ALHS đã được công bố trong và ngoài nước cho thấy:

Thứ nhất, các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu lịch sử, quá trình thừa nhận án lệ là một nguồn luật tại các quốc gia theo hai hệ thống luật Comman law và Civil law. Quan niệm về khái niệm, đặc điểm, vai trò, cách thức xây dựng và nguyên tắc áp dụng án lệ của các trường phái khác nhau tại các quốc gia trên thế giới. Đối với mỗi hệ thống Tòa án khác nhau, việc áp dụng án lệ là khác nhau. Do hệ thống luật pháp và cách thức tổ chức hoạt động của hệ thống Tòa án của các nước đó.

Các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng cho dù các nước theo hệ thống Comman law hay Civil law thì việc xây dựng và áp dụng án lệ ở mỗi nước là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện phát triển về kinh tế chính trị, và cách tiếp cận pháp luật, trình độ lập pháp, đăc biệt là cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội là khác nhau.

Bên cạnh đó, khi xây dựng án lệ, các công trình lưu ý tiêu chí lựa chọn, công bố, đề xuất hướng xây dựng và phát triển án lệ, cách thức áp dụng. Đây được xem là kinh nghiệm đối với Việt Nam khi thừa nhận, xây dựng và áp dụng án lệ.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước bước đầu làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của án lệ nói chung. Về khái niệm “án lệ”, trong các hệ thống pháp luật trên thế giới từ trước đến nay, án lệ được hiểu theo hai hướng, nghĩa rộng và nghĩa hẹp - tùy thuộc vào giá trị pháp lý của án lệ. Đều là những quyết định, bản án của các vụ việc đã được xét xử trước đó, nhưng theo nghĩa rộng, án lệ được dùng làm cơ sở cho giải quyết các vụ việc sau đó, theo hướng nghiên cứu bản án cũ và tham khảo lựa chọn làm cơ sở cho quyết định ở vụ việc mới. Còn theo nghĩa hẹp, án lệ đòi hỏi Thẩm phán trong mỗi Tòa án phải tôn trọng và tuân theo các bản án đã tuyên của các Tòa án cấp trên theo nguyên tắc bắt buộc. Điều này được thể hiện phần nào trong qua cách sử dụng thuật ngữ án lệ trong mỗi hệ thống pháp luật. Thuật ngữ án lệ được sử dụng phổ biến với từ “case - law” trong hệ thống pháp luật Civil law; và nó có nghĩa tương tự như từ “precedent” được dùng trong hệ thống pháp luật Common law. Tuy nhiên, từ “precedent” được sử dụng với nghĩa linh hoạt hơn, khi “case law” đòi hỏi tình tiết thực tế của các sự kiện phải giống nhau, thì “precedent” được mở rộng khi tình tiết  có thể khác nhau nhưng nguyên tắc áp dụng có thể sử dụng được là đã có thể áp dụng án lệ.

Thứ ba, đã có một số công trình đề cập đến việc áp dụng án lệ trong giải quyết vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu về ALHS ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, và chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Có một số bài nghiên cứu về cách thức xây dựng, công bố và áp dụng ALHS số 01. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu được nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành khác nhau như: Luật Quốc tế, Luật So sánh, Lý luận Nhà nước và pháp luật nên chỉ dừng lại ở việc phân tích làm rõ nhận thức về án lệ, khái niệm, đặc điểm, vai trò và nguyên tắc áp dụng án lệ nói chung. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về ALHS. Đây là khoảng trống khoa học cần tiếp tục nghiên cứu.

Thứ tư, bên cạnh những công trình nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề xây dựng, áp dụng án lệ nói chung, ALHS nói riêng thì cũng có một số công nghiên cứu sâu sắc về xã hội học pháp luật và cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong hai cuốn sách “xã hội học pháp luật [27], “cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người [28] của Võ Khánh Vinh, “Luật hình sự so sánh [29] của Hồ Sỹ Sơn là những công trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề hoàn thiện pháp luật nhằm xây dựng cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, về việc hoàn thiện pháp luật phải trên cơ sở thực tiễn, tính xã hội của pháp luật. Thực tiễn là thước đo chân lý cho sự tồn tại và phát triển của pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiên của pháp luật. Cuốn sách “Luật hình sự so sánh” đã nghiên cứu làm rõ nhiều nội dụng của pháp luật hình sự trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, so sánh pháp luật của một số quốc gia trên thế giới ở cả hai hệ thống luật Comman law và Civil law, đặc biệt là vấn đề nguồn của luật hình sự. Đây là những công trình nghiên cứu công phu, là tài liệu thiết thực để các nhà nghiên cứu về án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng có thể tham khảo khi nghiên cứu về án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về ALHS.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS của một số nước trên thế giới (hệ thống pháp luật Comman law và Civil law). Để xây dựng  và áp dụng án lệ hình sự trong thực tiễn có hiệu quả cần làm rõ khái niệm ALHS, chỉ ra đặc điểm, nội dung, vai trò, lý luận xây dựng và áp dụng ALHS.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu chưa phân tích làm rõ thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam. Do vậy các công trình nghiên cứu tiếp theo trên cơ sở phân tích thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam trong thời gian qua, cần có những đánh giá tổng kết những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại. Từ đó, chỉ ra nguyên nhân của những kết quả đạt được, hạn chế nhằm tìm hướng giải quyết để nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam hiện nay.

IV. KẾT LUẬN

Trên thế giới, cùng với lịch sử ra đời và những đóng góp có giá trị to lớn của án lệ trong thực tiễn hoạt động xét xử thì chỗ đứng của án lệ trong các công trình nghiên cứu cũng không thể thiếu vắng, thậm chí những sản phẩm khoa học nghiên cứu về án lệ còn được đánh giá là đồ sộ. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, án lệ nói chung, ALHS nói riêng là một vấn đề còn rất mới. Án lệ chính thức được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam trong thời gian 03 năm (2015 - 2018). Khoảng thời gian trên ghi dấu những bước đi đầu tiên cho thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ ở Việt Nam cũng là sự khởi đầu cho những tìm tòi, nghiên cứu tổng kết thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ bằng những công trình khoa học. Mặc dù, ở Việt Nam số lượng công trình nghiên cứu về án lệ nói chung, ALHS nói riêng còn ít. Nhưng tựu chung lại, các công trình đều tập trung nghiên cứu những nội dung sau đây:

Nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử ra đời của án lệ, các trường phái, quan điểm khác nhau về sự thừa nhận hoặc không thừa nhận án lệ ở các quốc gia trên thế giới. Các công trình đều luận giải những lý do hết sức thuyết phục khi bày tỏ đồng tình với quan điểm thừa nhận án lệ hay quan điểm không thừa nhận án lệ. Nguyên nhân chủ yếu tác động đến những quan điểm trên là xuất phát từ thực tiễn pháp luật ở từng quốc gia. Ngoài ra, các công trình khoa học đã công bố còn đề cập đến chủ thể ban hành và áp dụng án lệ, hiệu lực của án lệ.

Nhóm nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, vai trò của án lệ, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ trong thực tiễn. Các công trình thuộc nhóm này đều có quan điểm chung khi thừa nhận án lệ là một trong những nguồn luật. Tuy nhiên, những công trình này được tiếp cận dưới bằng nhãn quan khác nhau, cho nên quan điểm về vai trò của án lệ, giá trị của án lệ, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ cũng khác nhau.

Nhóm nghiên cứu về ALHS: Sự ra đời của ALHS, đặc điểm, cách thức tuyển chọn, xây dựng, công bố và áp dụng ALHS. Đây là nội dung mới. Vì vậy, số lượng công trình nghiên cứu về nội dung này còn quá ít. Chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên biệt, sâu sắc về ALHS. Có chăng, mới chỉ dừng lại ở dạng bài báo đăng kỷ yếu hội thảo khoa học. Tuy có những đóng góp nhất định nhưng chưa thể toàn diện và sâu sắc về quy trình, cách thức xây dựng và áp dụng ALHS.

Tóm lại, các công trình khoa học nghiên cứu trên chủ yếu khẳng định sự tồn tại án lệ ở các quốc gia là tất yếu khách quan. Các nước theo pháp luật thành văn cũng không thể không thừa nhận án lệ, bởi vì pháp luật luôn tồn tại những khoảng trống. Án lệ ra đời, tồn tại và phát triển như một yêu cầu tất yếu của quá trình hoàn thiện luật pháp. Bên cạnh đó, các công trình đã tập trung làm sáng tỏ chủ thể tạo lập án lệ. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền ban hành án lệ sẽ có vai trò rất quan trọng, quyết định đến số lượng và chất lượng án lệ được công bố.

Khi ra đời, án lệ góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật, góp phần cho các cơ quan có thẩm quyền tham khảo khi tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành văn bản pháp luật mới. Vì vậy, có thể khẳng định án lệ đảm bảo tính phổ biến, tính năng động và là cơ sở hoàn thiện các quy phạm pháp luật.

Tuy nhiên hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu và toàn diện về ALHS ở Việt Nam hiện nay, đây là khoảng trống mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục làm rõ, góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về ALHS, xây dựng và áp dụng ALHS và đưa ra một số yêu cầu, giải pháp về xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam hiện nay.



[1] Gerald J.Postema (1987), Some Roots Of Our Nation Of Precedent, In “Precedent In Law”, Edited by Laurence Goldstein, Clarendon Press-Oxford, p.p.10 - 15

[2] Sir John Davies, Irish Reports (1612), Introduction, quoted by J.A.G.Pacock in The Ancient Constitution And The Feudal Law, Cambirdge, p.p.3-32

[3] Blackstone:  Commentaries (13th ed). On The Law of England, Vol I, p.p.88-89

[4] D.Neil Mac Cormick (1997), “Interpreting Precedents - A comparative study”

[5] Brian Bix (2003), Jurisprudence Theory And Context, Third edition, London Sweett and Maxwell, p.p 57 - 60

[6] Theodore M.Benditt (1987), the Rule of Precedent, in “Precedent In Law”, Edited by Laurence Goldstein, Clarendon Press, Oxford, p.90

[7] Alexy, Robert, Ralf Dreier (1997), Precedent In the Federal Republic of Germany, in “Interpreting Precedents A Comparative Study”, Edited by MacCormick an R.S. Summers, Ashgate Publishing Company

[8] Eva Steiner (1957), French Legal Method, Oxford University Press, 20002, p.76

[9] Eva Steiner (1957), French Legal Method, Oxford University Press, 20002, p.76

[10] D.Neil Mac Cormick (1997), “Interpreting Precedents - A comparative study

[11] Alastair MacAdam và John Pyke (1998) , Judicial Reasoning and The doctrine of Precedent in Autralia

 

[12] Đặng Quang Phương, Về án lệ ở Việt Nam hiện nay, Tài liệu tọa đàm tìm hiểu án lệ của Nhật Bản, Hà Nội

[13] Nguyễn Văn Cường (2009)“Nhận thức chung về án lệ, tầm quan trọng của án lệ trong công tác xét xử, khái quát các trường phái án lệ trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II, tháng 2 (số 4).

[14]  Dương Bích Ngọc (2009), Nguyễn Thị Thúy, Vấn đề áp dụng án lệ ở Việt Nam, Tạp chí Luật học 5, 37

[15] Nguyễn Văn Nam (2011), Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội

[16] Đậu Công Hiệp và Hà Thị Phương Trà, “Quy định về án lệ trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 - nhìn từ góc độ bản chất của án lệ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số (4/2016)

[17] Võ Khánh Vinh (2015), Xã hội học pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

[18] Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội

[19] Nguyễn Văn Cường,(2009) “Án lệ Nhật Bản và một số vấn đề đặt ra khi đưa án lệ vào công tác xét xử tại Tòa án Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ I, tháng 10 (Số 19).

[20] Đỗ Văn Đại số,  “Án lệ của Tòa án tối cao - Kinh nghiệm của Pháp đối với sự phát triển án lệ tại Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 13 (2011)

[21] Trần Văn Tuân (2015), Bàn về tiêu chí, quy trình tuyển chọn án lệ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8, Tòa án nhân dân tối cao, tr.25

 

[22] Chu Thành Quang (2017), “Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Án lệ - lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước, Đại học Luật Hà Nội

[23] Châu Hoàng Thân (2016), “Thách thức và định hướng triển khai áp dụng án lệ ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 2/2016)

[24] Đỗ Thanh Trung (2018), Chức năng tạo lập án lệ, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh

[25] Nguyễn Anh Tuấn (2010), Nguồn của luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

[26] Trần Thị Quyên (2017), “Nội dung, cách thức xây dựng và áp dụng ALHS số 01”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Án lệ - Lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước, Đại học Luật Hà Nội

[27] Võ Khánh Vinh (2015), Xã hội học pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

[28] Võ Khánh Vinh (2013), Luật học so sánh, tr.284, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

[29] Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội


In Trang | Đóng cửa sổ