Một số ý kiến về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2025
Th
Th.S
Nguyễn Ngọc Tuấn
Phó Chánh án TAND Khu vực 7 - Bắc Ninh
Trước
đây, tội “Sử dụng trái phép chất ma
túy” từng được quy định tại Điều 119 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó, người
nào sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, đã được giáo dục
nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt
buộc mà còn tiếp tục sử dụng trái
phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Tái phạm tội này thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Tuy
nhiên, tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ quy định các
tội phạm về ma túy tại Chương XX, như: Tội “Sản xuất trái phép chất ma túy”
(Điều 248); Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Điều 249); Tội “Vận chuyển
trái phép chất ma túy” (Điều 250)…. mà không có tội “Sử dụng trái phép chất ma
túy”. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy sẽ bị xử phạt hành chính theo khoản
1 và điểm a, d khoản 8 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, đó là phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền từ 1 đến 2 triệu đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính; người nước ngoài vi phạm sẽ bị trục xuất.
Tại
khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Luật số 86 ngày 25/6/2025 của Quốc Hội khóa
15) đã bổ sung Điều 256a “Sử dụng trái phép chất ma túy” vào Bộ luật Hình sự và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025. Cụ thể như sau:
“Điều 256a.
Tội sử dụng trái phép chất ma túy
1. Người
nào sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 03 năm:
a) Đang trong thời
hạn cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế
theo quy định của Luật
Phòng, chống ma túy;
b) Đang trong thời
hạn quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật
Phòng, chống ma túy;
c) Đang trong thời
hạn 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy và trong thời
hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Luật
Phòng, chống ma túy;
d) Đang trong thời
hạn 02 năm kể từ khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc điều trị
nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật
Phòng, chống ma túy.
2. Tái phạm
về tội này thì bị phạt tù từ 03 năm đến 05 năm.”
Để làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, quan điểm và đường lối xử lý, trong
phạm vi bài viết này tác giả xin trao đổi về các vấn đề sau đây:
1.Khách thể của tội phạm
Tội
phạm
xâm phạm đến chế độ thống nhất quản lý
về các chất ma túy của Nhà nước, cụ thể là việc sử dụng chất ma túy. Ngoài ra
tội phạm còn xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người và sự phát triển bình thường của giống nòi.
Đối
tượng tác động của tội phạm là các chất ma túy như thuốc phiện, Heroin, Cocain,
Methaphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11, lá khát (lá cây Catha edulis), cây
khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định v.v…., các phương tiện, công cụ
dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.
2.Mặt
khách quan của tội phạm
-Theo
điểm 10 khoản 1 Điều 2 Luật Phòng chống ma tuý thì: “Người
sử dụng trái phép chất ma túy là người có hành vi sửdụng chất ma túy mà không
được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyênmôn có thẩm quyền và xét nghiệm
chất ma túy trong cơ thể có kết quả dương tính”.
Như vậy, người sử dụng trái phép chất ma túy là người có hành vi sử dụng chất ma
túy mà không được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyên môn có thẩm quyền,
bao gồm cả người đang sử dụng trái phép chất ma tuý bị cơ quan chức năng phát
hiện bắt quả tang và người đã sử dụng trái phép chất ma tuý mà không bị phát
hiện bắt quả tang nhưng thông qua xét nghiệm trong cơ thể có kết quả dương tính
với chất ma túy.
Người
có hành vi sử dụng chất ma túy mà
được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyên môn có thẩm quyền như: bác sĩ kê
đơn để giảm cơn đau cho bệnh nhân trong quá trình điều trị theo quy định tại
Thông tư số 52/2017/TT-BYT ngày 29/12/2017 của Bộ Y tế; hoặc bị người khác đe
dọa, cưỡng bức sử dụng trái phép chất ma túy (quy định tại Điều 257 BLHS)…. thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Căn
cứ quy định tại Khoản 5 Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, chất ma tuý thuộc
trường hợp bắt buộc phải phải trưng cầu giám định; mặt khác, kết quả que test
nhanh phát hiện chất ma tuý vẫn có sai số, không
đảm bảo chính xác 100%. Do vậy, căn cứ xác định có chất ma túy trong cơ
thể người sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra phải thu mẫu, trưng
cầu giám định và sử dụng kết luận giám định làm căn cứ để xử lý đối với vụ việc.
-Trường hợp phạm tội chưa đạt: Trường hợp một người thoả mãn một trong các
quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 256ª Bộ luật Hình sự đã có hành vi
chuẩn bị công cụ, phương tiện, địa điểm và ma tuý để nhằm mục đích sử dụng trái
phép chất ma tuý cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ,
lời khai người đó khẳng định nếu không bị phát hiện bắt giữ thì sẽ sử dụng ma
tuý; xác định trong cơ thể của người đó không có chất ma tuý.
Trong
trường hợp này, người đó có ý thức chủ quan
là cố ý sử dụng trái phép chất ma tuý; đã chuẩn bị công cụ, phương tiện, địa
điểm
và chất ma tuý để tiến tới thực hiện hành vi đưa chất ma tuý vào cơ thể, có
nghĩa
người đó đã thực hiện đầy đủ các hành vi khách quan của tội phạm; việc không
đưa được chất ma tuý vào cơ thể do bị phát hiện bắt giữ nằm ngoài ý thức chủ
quan, nếu không bị bắt giữ người đó sẽ thực hiện đưa chất ma tuý vào cơ thể. Do
đó, trường hợp này vẫn xử lý truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Sử dụng trái
phép chất ma tuý”, thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”.
1.Chủ thể của tội phạm:
Tội
phạm quy định tại Điều 256a là tội ít nghiêm trọng (khoản 1) và nghiêm trọng
(khoản 2), do đó người sử dụng trái phép chất ma tuý chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự khi thỏa mãn một trong các trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 256a có năng
lực nhiệm hình sự và có đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 BLHS.
Cụ
thể:
-Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ
luật Hình sự có quy định khác.
-Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều
sau:
+ Tội
giết người (Điều 123)
+ Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)
+ Tội
hiếp dâm (Điều 141)
+ Tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)
+ Tội
cưỡng dâm (Điều 143)
+ Tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)
+ Tội
mua bán người (Điều 150)
+ Tội
mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151)
+ Tội
cướp tài sản (Điều 168)
+ Tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
+ Tội
cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)
+ Tội
cướp giật tài sản (Điều 171)
+ Tội
trộm cắp tài sản (Điều 173)
+ Tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178)
+ Tội
sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248)
+ Tội
tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249)
+ Tội
vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250)
+ Tội
mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251)
+ Tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)
+ Tội
tổ chức đua xe trái phép (Điều 265)
+ Tội
đua xe trái phép (Điều 266)
+ Tội
phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử (Điều 286)
+ Tội
cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử (Điều 287)
+ Tội
xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
của người khác (Điều 289)
+ Tội
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản (Điều 290)
+ Tội
khủng bố (Điều 299)
+ Tội
phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303)
+ Tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304).
Do
vậy, chủ thể của tội phạm theo Điều 256a là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có
năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
4.Mặt
chủ quan của tội phạm
Tội
phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi
phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
5.Về
hình phạt:
-Khoản 1: Người thực hiện hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 3 năm:
(1) Đang trong thời hạn cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện các chất
ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy
Thời hạn cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 06 tháng
đến 12 tháng theo quy định khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 31 và khoản 3 Điều 33
Luật Phòng, chống ma túy năm 2021.
Người đang tham gia điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế được
chấm dứt điều trị khi có nguyện vọng không tiếp tục tham gia điều trị nghiện
chất dạng thuốc phiện theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị
định 90/2016/NĐ-CP.
(2) Đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật
Phòng, chống ma túy
Thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy được quy định tại khoản 1, 2 Điều 40 Luật
Phòng, chống ma túy năm 2021, cụ thể:
- Người đã hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện, người đã hoàn thành điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người từ đủ 12 tuổi đến
dưới 18 tuổi đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu
sự quản lý sau cai nghiện ma túy trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hoàn thành
việc cai nghiện hoặc chấp hành xong quyết định.
- Người đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự quản lý sau cai nghiện ma túy trong thời hạn
02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định.
(3) Đang trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma
túy và trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định
của Luật Phòng, chống ma túy
Theo khoản 2 Điều 23 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, thời hạn quản lý người
sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã ra quyết định quản lý.
(4) Đang trong thời hạn 2 năm kể từ khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự
nguyện hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định
của Luật Phòng, chống ma túy
-Khoản 2: Người nào tái phạm về tội này thì bị phạt tù từ 3 năm đến 5 năm.
6. Về đường lối xử lý:
Tội phạm quy định tại Điều 256a tuy chỉ là ít nghiêm trọng (tại khoản 1) và
nghiêm trọng (tại khoản 2), nhưng gây hậu quả lớn cho xã hội về các lĩnh vực:
trật tự, an toàn xã hội; kinh tế; sức khỏe của con người…., vì vậy không nên cho
hưởng án treo.
Lưu
ý:
Về
thời điểm xác định hành vi phạm tội:
Các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 256ª Bộ luật Hình sự sử dụng từ “đang”.
Do vậy các quyết định có thể ban hành
trước hoặc sau thời điểm 0 giờ 00 phút ngày 01/07/2025 nhưng vẫn đang còn hiệu
lực và đang diễn ra thì đều được áp dụng để xử lý.